KINH NGHIỆM DÙNG THUỐC ĐỂ TĂNG TẬP TRUNG CHO TRẺ TỰ KỶ

Thật may mắn cho ngôi nhà chung của chúng ta là mẹ MC là một dược sĩ, thạc sĩ công nghệ y sinh được đào tạo ở châu Âu. Những vấn đề về thuốc liên quan tới các con, chúng ta có thể dựa vào lời khuyên của mẹ MC.

Các thuốc nhóm chống tâm thần, thuốc kích thích hoặc không kích thích có thể làm “tăng độ tập trung” ở trẻ ADHD và cả tự kỷ

 

Những cái tên có vẻ bạn sẽ thấy quen quen:

– Risperdal (thành phần là Risperidone): thuộc nhóm thuốc chống tâm thần (anti-schycholic medication)

– Ritalin (thành phần là Methylphenidate): thuộc nhóm thuốc kích thích (stimulant medication)

– Vân vân …: nhóm thuốc không kích thích (nonstimulant medication)

 

Dưới đây sẽ trình bày 3 nhóm thuốc mà có thể sử dụng cho ADHD và cả tự kỷ.

Nhưng chúng ta lưu ý là KHÔNG nên quy chúng thuộc một duộc là “thuốc giảm tăng động”. Bởi vì có trường hợp không tăng động nhưng có ADD (rối loạn thiếu tập trung) thì vẫn lựa chọn sử dụng những thuốc ấy.

“70 đến 80 % trẻ em ADHD đáp ứng với điều trị bằng thuốc kích thích, do đó, đây là tuyến phòng thủ ưu tiên. Các bác sĩ đôi khi kê đơn thuốc không kích thích cho khoảng 20 tới 30 % trẻ em ADHD không đáp ứng với điều trị kích thích”. Bác sỹ tâm lý của con mình cũng nói như vậy. Ông còn nói thêm, trẻ tự kỷ thường có độ tập trung ngắn (short attention span), cái đó có thể là do đặc điểm của tự kỷ, nhưng cũng có thể còn do đứa trẻ kèm theo khuyết tật ADD (rối loạn thiếu tập trung) nên cũng có thể sử dụng những thuốc này (cụ thể với trẻ tự kỷ không tăng động thì ông nghĩ đến Ritalin). Và với tự kỷ thì sắc xuất thành công khi sử dụng chúng sẽ là 50% các trường hợp.

1. Thuốc chống tâm thần

Risperdal (thành phần là Risperidone).

 

Tác dụng phụ:

* Đọc các chia sẻ của những người hoặc cha mẹ những người đã từng sử dụng Risperdal 2-3-4 năm, họ kể một số tác dụng phụ mà họ đã thực sự trải qua : Tăng cân ; Tăng huyết áp ; Rối loạn tim [1].

* Risperidone sử dụng lâu dài tác động thới cân nặng của đứa trẻ trong phổ tự kỷ [2].

* Đọc một nghiên cứu trị liệu trẻ tự kỷ bằng Risperdal. Kết luận sơ bộ: có giúp giảm bớt những hành vi thử thách nhưng tác dụng phụ là đáng kể [3].

* Một nguồn thông tin khác có ghi rõ Risperdal được dùng để chữa một vài bệnh trong đó có tự kỷ. Tác dụng phụ đáng lưu ý nhất là có thể liên quan đến đái tháo đường. Khuyên là kiểm tra đường huyết trước và trong khi điều trị bằng thuốc này. Các tác dụng phụ khác không có gì nghiêm trọng cả [4]

 

* Mình nghe một mẹ trong CLB của mình có con trai hơn 7 tuổi, sử dụng thuốc này thì cháu giảm tăng động nhưng mà béo phì, sau một thời gian thì mẹ cháu stop rồi.

 

* Dr. Kenneth Bock viết: đối với một số bệnh nhân có ADHD, tôi có thể kê đơn các thuốc chống tâm thần như là Risperdal hoặc Abilify. Tôi làm điều này không phải vì những bệnh nhân ấy là bệnh nhân tâm thần. Mà tôi làm thế là vì những thuốc ấy phù hợp với những nhu cầu cụ thể của những trẻ này. Tương tự như vậy, tôi có thể kê đơn thuốc chống trầm cảm cho một số trẻ có ADHD mặc dù chúng đang không mắc chứng trầm cảm [5].

 

* Còn bác sỹ tâm lý của MC thì nói rằng khi cần sẽ kê những loại thuốc cần thiết, nhưng hầu như các thuốc dùng để chữa ADHD (thuốc chống tâm thần như Risperdal này) thì sẽ làm cho đứa trẻ trở nên thờ ơ, đang tăng động thì giảm tăng động, mà đang thu lu một góc thì càng thu lu hơn.

Thuốc kích thích

Hiện có hơn một tá loại thuốc kích thích trên thị trường, nhưng một số thứ liệt kê ở đây là  phổ biến nhất.

  • Methylphenidate (Ritalin,Concerta, Daytrana, Metadate, Methylin, Focalin): đây là những thuốc được sử dụng rộng rãi nhất cho ADHD và là phổ biến nhất.
  • Dextroamphetamine-amphetamine (Adderall)
  • Dextroamphetamine (Dexedrine)
  • Lisdexamfetamine dimesylate (Vyvanse)

Có vẻ kỳ lạ khi dùng chất kích thích để chữa cho một đứa trẻ quá tăng động, nhưng các nhà nghiên cứu tin rằng chúng có thể giúp điều chỉnh các mức độ dẫn truyền thần kinh trong não bộ của trẻ em ADHD. Chất kích thích có thể được dùng ở dạng tác dụng ngắn và tác dụng dài, để con bạn có thể uống thuốc thường xuyên như ba lần một ngày (với thuốc tác dụng ngắn)  hoặc có lẽ chỉ một lần một ngày (với thuốc giải phóng từ từ). Thuốc được sản xuất ở dạng thuốc viên, viên nang, lỏng và băng dán.

Tác dụng phụ : Hầu hết trẻ em đều trải qua một số tác dụng phụ, các chứng mất ngủ là phổ biến nhất, chán ăn, hoặc giảm cân. Đôi khi, trẻ em sẽ bị cáu kỉnh, khó chịu hay phản ứng “ngược lại” khi thuốc hết tác dụng. Tác dụng phụ rất hiếm xảy ra là: tật máy mặt, mà thường biến mất nhanh chóng với một liều thấp hơn hoặc thay đổi thuốc men, và mức tăng sự bất thường sẽ giảm. Trẻ em nên được kiểm tra tình trạng tim mạch trước khi bắt đầu điều trị bằng các chất kích thích.

Methylphenidate – Ritalin

* Dr. Kenneth Bock viết:

Tôi thường xuyên kê đơn các thuốc methylphenidate cho các trẻ tự kỷ và kể để bạn thấy thuốc này nó phổ biến đến thế nào khi mà hầu hết mọi trẻ có ADHD trước khi đến chỗ tôi thì đã từng được ai đó kê đơn sử dụng các thuốc ấy rồi (ví dụ Ritalin là một thứ thuốc cổ điển nhất của nhóm methylphenidate). Nhưng tôi luôn cố gắng tìm mọi cách để đứa trẻ ngừng sử dụng thuốc đấy chứ không phải là cứ sử dụng chúng lâu dài. Những thuốc này có thể là phù hợp với một số trường hợp, nhưng nó lại đang được kê đơn quá nhiều. Ritalin và các methyphenidate khác là rất phổ biến với các bác sỹ, các cha mẹ tích cực và những nhà giáo dục chăm chỉ. Những thuốc này thường đem lại hiệu quả mong muốn về thay đổi hành vi cho đứa trẻ.

Khi đứa trẻ sử dụng những thuốc này quá lâu, không ngừng lại thì nó sẽ phải lệ thuộc vào thuốc này khi nó lớn.

Tôi cố gắng duy trì sử dụng thuốc này cho bệnh nhân trong thời gian ngắn nhất có thể và với liều nhỏ nhất có thể. Tôi chỉ kê đơn Ritalin cho bệnh nhân có triệu chứng nặng nhất, cộng thêm là những bệnh nhân đó không thể tự phục hồi nếu không có sự tác động thêm của thuốc men. Nếu những triệu chứng của chúng là tương đối có thể kiểm soát, tối sẽ lựa các cách tự nhiên, như là bổ sung magie, các acid béo omega 3, DMAE, sắt, kẽm, phosphoatidylcholine và các chất nutraceutical khác mà có thể chặn được nguyên nhân của bệnh.

Nếu đứa trẻ sử dụng các methylphenidate lâu dài, thì cần thiết phải làm xét nghiệm chức năng chuyển hóa (metabolic functions) để đảm bảo là cơ thể không phải chịu một tác dụng phụ nào [5]

 

* Thông tin từ một trang web y khoa cho biết: Các thuốc kích thích (như Methylphenidate và Amphetamines là thường được kê đơn cho những người rối loạn tăng động thiếu tập trung – attention-deficit hyperactivity disorder (ADHD). Các triệu chứng ADHD có thể cải thiện ở tuổi vị thành niên và theo thời gian đứa trẻ lớn lên, nhưng cũng có thể kéo dài cho tới khi trưởng thành. Ở Mỹ, ADHD được chẩn đoán khoảng 8% ở tuổi 4-17 và khoảng 2,9-4,4% ở người trưởng thành [6].

 

* Bác sỹ tâm lý của con mình thì nói: các tác dụng phụ có thể gặp là đau đầu, đau bụng, chán ăn. Nhưng vì trẻ tự kỷ không biết nói ra khi cảm thấy thế nào nên việc dùng thuốc cần phải kiểm soát chặt chẽ. Trước khi quyết định sử dụng thì sẽ làm các loại xét nghiệm máu để kiểm tra các chức năng sinh hóa của cơ thể (công thức máu, đặc biệt là chức năng gan để đảm bảo khả năng thải thuốc là hoàn hảo). Nói về tác dụng phụ thì ông nhấn mạnh thêm ưu điểm của loại thuốc này là thuốc đào thải rất nhanh, chỉ sau 2-4 tiếng. Để quyết định dùng Ritalin cho con trong một giai đoạn hay không thì có thể cho dùng thử 2-3 tuần rồi theo dõi xem hành vi có cải thiện không và đáp ứng của con có tập trung hơn không?

Thuốc không kích thích:

Có hai loại thuốc không kích thích đặc biệt dành cho điều trị ADHD ở trẻ em.
• Atomoxetine (Strattera): Strattera làm tăng mức độ của chất truyền thần kinh / norepinephrine hormone lên não. Các nhà nghiên cứu nghĩ rằng hóa chất này đóng một vai trò quan trọng trong việc tập trung và chú ý. Thuốc này cũng có thể làm giảm sự lo lắng. Strattera có thể gây ra một số tác dụng phụ hiếm gặp nhưng rất nghiêm trọng, bao gồm vàng da và các vấn đề về gan khác, và ý nghĩ muốn tự tử.
• Guanfacine (Intuniv): Đây là hình thức mới hơn của Tenex, một loại thuốc cao huyết áp, đã được chấp thuận cho điều trị ADHD vào mùa thu năm 2009. Một lần nữa, các bác sĩ không thực sự chắc chắn lý do tại sao nó hoạt động, nhưng nó có thể giúp kiểm soát hành vi được điều khiển từ vỏ não trước trán, vùng não tác động trong thử nghiệm của chúng tôi. Các tác dụng phụ thường gặp nhất của Intuniv là mệt mỏi và buồn ngủ. Các tác dụng phụ khác có thể bao gồm hạ huyết áp và nhịp tim thấp, chóng mặt, ngất và buồn nôn.

Tài liệu tham khảo:

[1]. http://www.healthboards…./index.php/t-363000.html

[2]. The effect of long-term use of risperidone on body weight of children with an autism spectrum disorder.http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/21881456

[3]. Therapies for Children With Autism Spectrum Disorders.

http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/21834171

[4]. http://www.medicinenet.com/risperidone/article.htm

[5]. Healing the new childhood epidemics (4A-disorder); Dr. Kenneth Bock, trang 353, 354.

[6]. http://www.nida.nih.gov/infofacts/adhd.html

Mẹ MC

Rate this post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *